Một trong những nền văn minh nổi tiếng đầu tiên mà chúng ta biết đến là Ai Cập. Thời Ai Cập cổ đại, khí hậu ở đây nóng và khô hạn, phá huỷ độ ẩm đến mức tột độ. Chính sự đa dạng của các loại đá thiên nhiên như: hoa cương, thạch anh, pofia, v.v... đã giúp cho các dấu tích của nền văn minh Ai Cập cổ còn tồn tại được đến ngày nay, thậm chí một số tác phẩm điêu khắc hay những dòng chữ khắc vào đá vẫn còn nguyên vẹn. Đặc biệt thời kỳ Ai Cập cổ đại, tôn giáo chiếm vị trí vô cùng quan trọng, nhiều truyền thống xa xưa “nở rộ” ở thời tiền sử, với những nghi lễ phức tạp của các pharaon Ai Cập đã từng “mê hoặc” cả thời Cổ đại trước khi bị đạo Hồi thế chỗ. Đó là các nghi lễ được tổ chức xung quanh nhiều vấn đề của cuộc sống, độc đáo là việc bảo quản thi thể con người sau khi chết. Việc chuyển thi thể thành xác ướp và chăm lo cất giấu dưới các ngôi mộ ở Ai Cập được quan tâm nhiều hơn so với các nước khác. Mộ Ai Cập được xem như những con tàu thực sự của Noé. Mặc dù xẩy ra rất nhiều cuộc cướp bóc trong những ngôi mộ này, nhưng nó vẫn mang lại cho chúng ta sự hiện diện của nền văn minh Ai Cập cổ đại nhờ các đồ vật, câu khắc, các tác phẩm điêu khắc và những bức họa hay những di chỉ còn tồn tại.
Trải qua hàng nghìn năm, rất nhiều thành phố lớn đông đúc và thịnh vượng, cùng kho tàng, thành quách, bến cảng, công trình nghệ thuật và tất cả những gì thuộc về cuộc sống thường ngày của Ai Cập cổ đều bị tàn phá. Người Ai Cập cổ đại có tục ướp xác tạo thành các “momi” và chôn chúng trong những ngôi mộ đồ sộ gọi là Mastaba và Kim tự tháp. Mastaba là lăng mộ của tầng lớp quý tộc được xây bằng đá, có mặt cắt, mặt bằng. Trong Mastaba có ba phòng: phòng sảnh, phòng tế lễ và phòng thờ (nơi đặt tượng người chết). Từ mặt trên của Mastaba người ta đào một giếng tròn hoặc vuông, sâu khoảng 30m. Đáy giếng thông sang một hành lang rồi đến phòng mai táng (nơi để quan tài). Sau khi chôn người chết, giếng được lấp kín. ở Ai Cập còn tìm thấy nhiều nơi có dấu vết của Masataba, ví dụ khu lăng mộ vua chúa ở Memphis, xây dựng vào vương triều thứ ba, khoảng thế kỷ XVIII trước công nguyên (CN). Loại hình kiến trúc này là nguồn gốc ban đầu của Kim tự tháp. Các Kim tự tháp của Ai Cập cổ đại vô cùng nổi tiếng, đã được xếp vào hàng bẩy kỳ quan thế giới bởi sự vĩ đại và vẻ đẹp của nó. Đó là những kiệt tác của khoa học kiến trúc chứ không chỉ là kiệt tác của kiến trúc.
Cần phải khám phá nghệ thuật Ai Cập tại các ngôi đền, tuy nhiên hầu như không một tác phẩm nào còn nguyên vẹn đến ngay nay. Người ta đã tìm kiếm được hàng nghìn bức tượng và các tác phẩm điêu khắc, nhưng hầu hết chúng bị vỡ hoặc tách rời thành từng mảng. Còn về hội hoạ, các kiệt tác là vô cùng hiếm và được đặt ngầm dưới đất, cho đến nay còn lại ít dấu tích, vì thế những đặc thù của hội họa Ai Cập cổ đại không mấy ai nhắc tới. Ban đầu, hệ thống chữ viết Ai Cập trở nên bí hiểm, kể từ khi thế giới Cổ đại sụp đổ đã dần để lộ ra bí mật của nó. Nghệ thuật Ai Cập có thể khôi phục lại trong niên đại và địa lý của mình với một sự chính xác lớn. Nhờ khám phá ra các ngôi mộ vua chúa, chúng ta đã có vinh dự sở hưũ một vài kiệt tác vẫn còn nguyên vẹn qua hàng nghìn năm.
Vùng Trung cận Đông chưa thấy được những đặc tính đẹp, nhất quán như lịch sử Ai Cập cổ đại, nhưng ngành khảo cổ học đã giúp chúng ta thấy được dân số và triều đại của vùng đất này không kém phần hùng mạnh bởi lưu vực sông Nin. ở Trung cận Đông, tại I-rắc, người ta đã phát hiện được năm nghìn bản viết ghi nhận sự phát triển của chữ viết hình góc vào khoảng 3300 trước CN, thời gian này khá gần với giai đoạn Ai Cập làm chủ chữ viết tượng hình (khoảng 3150 trước CN). Nhờ sự thuận lợi về mặt địa lý của lưu vực sông Nin đã tạo điều kiện cho nhiều mối quan hệ giao lưu trở nên chặt chẽ, từ đó văn hóa và nghệ thuật ở vùng này đã phát triển một cách nhanh chóng. Trong khi đó cũng ở Trung cận Đông, lịch sử vùng Mésopotamie (Lưỡng Hà) lại đầy “sóng gió”, nhiều cuộc chiến tranh xâm lược giữa các vương quốc diễn ra không ngừng. Qua nghiên cứu cho thấy: ở vùng Trung cận Đông, tính đến khi Đế chế Achéminide ra đời (năm 550 trước CN) các nền văn hóa thường “nở rộ” trong một khoảng thời gian ngắn rồi vụt tắt. Vốn kiến thức của chúng ta về vùng Trung cận Đông chủ yếu nhờ việc khai quật các khu mộ. Tuy nhiên, ngay cả các công trình với kích thước khổng lồ cũng để lại rất ít dấu vết, vì thế các bằng chứng nghệ thuật của vùng Trung cận Đông để lại cho ngày nay khá hiếm. Trong số đó phải kể đến những bức điêu khắc thời vua Gudea với hình nộm là chính ông, được làm bằng những khối khoáng vật học diorit. Chính nhờ sự sáng tạo này mà vua Gudea giữ một vị trí khá quan trọng trong lịch sử.
Sargon II
Để tránh việc so sánh giá trị kho tàng nghệ thuật Ai Cập cổ với nghệ thuật vùng Trung cận Đông, vì mọi điều so sánh đều khập khiễng, chúng ta hãy chiêm ngưỡng các mảnh vỡ khá quý, được giữ gìn tốt và các bức chạm khắc miêu tả vua Sargon II hay một quan chức nào khác được trưng bày ở bảo tàng Louvre. Những thứ này đã góp phần trang trí nên cung điện Khorsabad (ra đời khoảng cuối thế kỷ XIII trước CN). Bức chạm khắc được đẽo gọt bằng alêbat trắng nuột như thạch cao, là một tác phẩm vô cùng tinh tế, pha trộn giữa sự giản dị của tổng thể với kiểu cách của chi tiết. Chúng ta hãy tiếp tục chiêm ngưỡng, vẫn tại bảo tàng Louvre bức chạm nổi lớn có xuất xứ từ mộ của Séthi I tại Thèbes (khoảng 1303 - 1209 trước CN). ở đây, đức vua còn khá trẻ, được tô điểm bởi vô số đồ trang sức, ông đang tiếp chuyện với nữ thần Hathor. Những hình ảnh biểu lộ trên các tác phẩm này mang nhiều tính tương phản và tượng trưng. Các vua Ai Cập thường lo sợ chiến tranh, theo quan niệm khi đó, vua có thiên chức như những vị thần, họ có thể đối thoại với các vị thần theo các công ước để có thể ngăn chặn chiến tranh sẽ xảy đến. Chúng ta hãy cảm nhận các kiệt tác nghệ thuật này, bất kể chúng có chung sự biểu lộ nghệ thuật hay đối lập nhau về cách biểu lộ nghệ thuật.
1. Kiến trúc Ai Cập cổ
Tôn giáo thống trị lên cuộc sống của người dân Ai Cập cổ được minh chứng qua hàng loạt ngôi đền bằng đá đồ sộ. Ngay từ thời xa xưa, người Ai Cập đã vô cùng ngưỡng mộ những ngôi đền đá, họ thường chuyển các tượng đá hoa cương kỳ lạ thành các cột tháp đặt trước đền. Sau này, người ta có những phương thức đặc biệt để áp dụng phong cách này vào các quảng trường chính của thành phố. Tới thế kỷ XIX, phong cách này lại du nhập vào quảng trường Concorde ở Paris, quả là một kỳ tích về mặt khai thác kỹ xảo nghệ thuật. Thăm quảng trường Concorde người ta thấy một loạt tượng tạc từ một khối đá và những bức tường thành tạo nên bởi nhiều viên đá chồng lên nhau. ý thức quan sát và sự nhạy cảm của các kiến trúc sư muốn đưa nghệ thuật kiến trúc Ai Cập cổ vào quảng trường Concorde, họ đã khai thác nhiều hình dáng và các cột cao có bệ đỡ trong kiến trúc Ai Cập.
Ai Cập cổ đại áp dụng thường xuyên kiến trúc cột trong việc xây dựng các công trình quan trọng. Tuy nhiên rất hiếm khi các cây cột được làm tách biệt mà thường hình thành bởi các khối đá được đục đẽo kỹ càng, trên bề mặt được khắc các hình trang trí lớn hoặc các ký tự khác nhau. Thường thường cột được đặt trên một chiếc bệ, phần trên được tạo dáng trông giống như một chiếc mũ. Nhiệm vụ của những chiếc cột là phải chống đỡ mái của cả một công trình kiến trúc. Chính vì thế thân cột phải chắc chắn, đặt gần nhau mới có thể đỡ được những khối đá khổng lồ được đặt ngang trên nó. Dường như từ rất sớm, ở Ai Cập, một loạt cột kiểu mẫu điển hình đã được hình thành, nó thường có mối liên hệ với các loại cây, chẳng hạn như cây sen hay cây cói giấy. Điều kỳ diệu là nhìn vào đó, người ta thường có những hồi ức trực tiếp tới các công trình xây dựng nguyên thuỷ bằng gỗ. Tuy nhiên, chúng ta cần phải dè chừng với học thuyết “tiến hoá”. Mặc dù nhìn hình thức bên ngoài và cách giải thích ở thế kỷ XVIII, cột gôtíc không xuất phát từ cánh rừng đạo sĩ (xứ Gôlơ), song cũng không chắc chắn cột trụ Ai Cập đại diện cho những kiến trúc cột gỗ cổ nhất...
Có rất nhiều nghiên cứu khác nhau về nghệ thuật kiến trúc cột trụ Ai Cập, nhưng điều hiển nhiên cho thấy: các kiến trúc cột này đã làm cho sự thô mộc của các lăng mộ và kim tự tháp trở nên tinh tế và hài hoà. Kiến trúc Ai Cập thu hút mắt nhìn bởi cách chia không gian trong khối đặc bằng những hình tượng lớn và cảm hứng thu nhận ánh sáng từ nhiều dạng cột khác nhau.
Đến với đền Amon ở Louxor, trong khoảng sân thứ hai, ta sẽ được chiêm ngưỡng hàng cột với nhiều dạng khác nhau, có từ triều đại Aménophis III (1390-1352 trước CN). Chân cột trông như một cái gốc, sau đó khum lên một cách nhẹ nhàng, rồi vươn lên trước khi gắn kết với đỉnh cột để tạo thành một chùm tựa như mũ cột. Tất cả các cột Ai Cập và các hình vẽ trên thân cột đều tượng trưng cho sức mạnh và sự phát triển của xã hội lúc bấy giờ. Có thể coi đó là những khám phá tuyệt vời nhất về nghệ thuật gôtíc. Thời gian luôn mang bên mình sức tàn phá khủng khiếp, vậy mà, hàng cột vĩ đại của Amenophis III vẫn đứng hiên ngang với hai dẫy cột tròn, đỉnh cột có dạng hình chuông được mô phỏng theo tán cây cói giấy. Người ta cũng phát hiện được hàng cột theo phong cách này tại Karnak .
Cột đỡ trần phía trên có nữ thần Hathor (1478-1458 TCN)
Nghệ thuật Ai Cập có lúc phơi bày những khối cột trang trí đơn giản, đôi khi thân và đế cột chỉ có hình tròn, đỉnh cột bằng phẳng, không có các đường gờ nổi lên nhưng lại được gọt đẽo với nhiều dáng vẻ khác nhau. Điển hình như hàng cột được tìm thấy trong những ngôi mộ của nghĩa trang Beni Hassan (triều đại XII, khoảng năm 1390 trước CN). Một số cột mang đậm phong cách nghệ thuật điêu khắc Ai Cập nữa là loại cột ở trên đỉnh, hai hoặc bốn phía thường thấy khuôn mặt nữ thần Hathor với dáng vẻ nhân đạo, tai to, bộ tóc giả dài. Có quan niệm cho rằng: sự hiện diện các hình trang trí này làm mất đi tính thống nhất và khỏe khoắn của kiến trúc cột; ví dụ kiến trúc cột đỡ trần của Karnak: phía trên trang trí bằng các hình vẽ, phía dưới rất nhiều hình chạm nổi. Chính các mảng khối này đã làm giảm đi các đường lượn trinh nguyên của các cột trụ. Lại có quan niệm cho rằng phần lớn cột trụ Ai Cập được xây dựng một cách thẩm mỹ, khu mộ của El Amarna là một ví dụ: các cột được chụm lại rất lạ tạo thành chỏm khép kín, thân cột thì phình ra, thanh thoát, chúng được làm từ đá tự nhiên. Điều đặc biệt là các cây cột ở đây không phải gánh vác trách nhiệm chống đỡ. Có thể kết luận: kiến trúc cột trụ của Ai Cập là một sự sáng tạo về kiểu dáng. Và tới tận ngày nay, kiểu dáng này vẫn giữ vài trò chủ yếu trong nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng.
2. Kiến trúc Trung Cận Đông
Cho dù rất muốn nhưng người ta cũng không có cách nào để dựng lại một cách xứng đáng kiến trúc của vùng Mésopotamie (còn gọi là vùng Lưỡng Hà - một bình nguyên nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates thuộc Tây á, ngày nay là miền nam của I-rắc). Hầu như tất cả các thành phố cổ ở vùng này đều bị phá trụi, nhiều vị trí của các thành phố còn không thể xác định rõ được. Những thành phố cổ ở Mésopotamie đều được xây dựng bằng gạch khô hoặc đất nung vậy mà cũng không chịu được sự tàn phá của thời gian. Vì thế, chúng ta chỉ có thể thu thập được một vài nét qua các cuộc khai quật. Ghi nhận nhất về kiến trúc của vùng Trung cận Đông là tháp tầng, trên đỉnh có một ngôi đền, nó được lưu giữ trong trí nhớ mọi người cùng với tháp Babel của Bible. Đây không phải là công trình phục vụ lễ tang như các tháp Ai Cập, mà được coi như nơi ở của các vị thần dẫn đường tới thiên đình. Kiến trúc các tháp tầng là một trong những cố gắng cuối cùng của thời tiền sử và sơ sử để dựng nên một công trình khổng lồ. Ur nằm trong khu tháp tầng Ziggurat ở I-rắc có từ hai nghìn năm trước Công nguyên là một trong những tháp tầng được bảo tồn tốt nhất, tuy chỉ còn giữ nguyên được phía trong tầng tháp thứ nhất. Tháp Ur được xây bằng gạch nung, với chiều cao hơn 63mx43m tính từ chân cột, được chia làm ba tầng. Lối vào là ba cầu thang, chúng cùng dẫn đến thềm nghỉ của tầng 2. ở khu vực trung tâm tháp, người ta nhận thấy đã có đôi chút trùng tu. Tầng 2 của tháp Ur chỉ còn sót lại phần ngoài của khối gạch. Đền Chúa Sin, bao quanh tháp nhưng không còn để lại một chút vết tích nào. Tổng thể của Ziggurat cũng theo phong cách các tháp Ai Cập, nhưng ngay từ thời đại Ba-by-lon, các cầu thang lớn của tháp tầng này đều được thay thế bằng đoạn đường dốc dài bên ngoài hình xoắn ốc, dẫn lên tới tận chính điện ở ngôi đền nằm trên đỉnh.
Kiến trúc vùng Mésopotamie dành phần lớn vào việc xây dựng hào công sự. Những gì người ta đã khai quật được tại các khu mộ của Mari, Larsa, hay Assur đều là các công trình xây dựng lớn, thích hợp với các cuộc trình diễn hoành tráng. Quan sát từ trên không xuống phạm vi khai quật giúp chúng ta lý giải được giá trị địa lý của từng địa điểm. Đầu tiên chúng ta nói tới thành phố Ugarit cổ kính, nơi đã có thời thịnh vượng nhờ vào vị trí gần đảo Chypre, và là nơi đầu nút các tuyến đường quan trọng. Các cuộc khai quật ở Ugarit đã khám phá ra bằng chứng của tám ngôn ngữ khác nhau và 5 hệ thống chữ viết. Tuy nhiên dường như người ta chưa tìm thấy ở đó những dấu tích có ý nghĩa quan trọng liên quan tới kiến trúc của thành phố cổ này, mặc dù còn tồn tại một bức tường thành và một cung điện hoàng gia, song cũng chưa tìm thấy mối liên quan đến đặc thù nghệ thuật kiến trúc của chúng vùng này.
Kiến trúc cột trụ đối với vùng Trung cận Đông có vai trò gì không? Liệu kiến trúc cột có thích hợp với các vật liệu truyền thống của khu vực này? Câu hỏi đã được trả lời sau khi người ta tìm thấy kiểu kiến trúc tuyệt vời tại cung điện Suse thời Darius (thuộc I-ran ngày nay) . Trong cung điện có cột cao 20m, hai đầu phình ra bởi các khối tròn nhỏ cuộn lại tạo độ vững chắc cho thân cột. Trên đầu cột đặt bức tượng bán thân lớn của hai con bò mộng. Đây là một tác phẩm điêu khắc hoàn mỹ. Người ta ước tính nó ra đời vào khoảng năm 522 - 468 trước Công nguyên, thời kỳ mà thuyết hỗn hợp cho phép pha trộn văn hóa truyền thống với những gì vay mượn được của văn hóa Ai Cập và Hy Lạp.
NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC
1. Điêu khắc Ai Cập
Không ngòi bút nào có thể diễn tả được sự kỳ diệu của nghệ thuật điêu khắc Ai Cập cổ. Qua khai quật các khu mộ, người ta tìm thấy những tác phẩm điêu khắc còn nguyên vẹn bằng đá granit hồng, baza, thạch anh, pofia... chúng không bị ăn mòn theo thời gian. Chính các tác phẩm bằng gỗ, đất nung, sành, đồ mỹ nghệ, các bức tượng và các chạm nổi tạo thành kho báu quý về nghệ thuật điêu khắc cổ Ai Cập còn tồn tại đến ngày nay. Tuy nghệ thuật điêu khắcAi Cập cổ được nghiên cứu một cách say mê nhưng không có tên tuổi điêu khắc gia nổi tiếng nào được lưu truyền qua sử sách. ở đây, chúng ta không đi quá sâu hay quá chi tiết vào sự hình thành và phát triển của nghệ thuật điêu khắc Ai Cập mà sẽ nhấn mạnh những đặc điểm chính của nền nghệ thuật điêu khắc cổ này.
Tác phẩm điêu khắc Ai Cập cổ nhất được lưu giữ tại bảo tàng Louvre. Đó là cán dao “Gebel el–Arak” có từ năm 3150 trước Công nguyên (TCN). Dao dài 25cm, lưỡi bằng đá lửa, cán dao được chạm nổi tinh tế trên ngà một chiếc răng hà mã. Đây được coi là một tác phẩm điêu khắc có tầm cỡ dù kích thước của nó không lớn. Trên đỉnh mặt trước cán dao là hình “chúa tể của muôn thú”- một người đàn ông chiến thắng hai con sư tử. Hình ảnh này rất gần với kiểu mẫu mà người ta thường gặp trong nghệ thuật ở vùng Mésopotamie (Lưỡng Hà). Phần còn lại của mặt trước là rải rác các động vật khác nhau với dáng điệu đặc biệt biểu cảm, cân đối, chính xác. Mặt sau chạm khắc tinh tế hơn, miêu tả cuộc chiến đấu phân chia theo ba giai đoạn, mỗi giai đoạn bố cục thành một lớp người trong dáng hình rất sinh động. Tác phẩm đặc tả sự đấu tranh đòi tự do của con người, hình ảnh mang tính tượng trưng về cuộc sống. Đây là phong cách biểu đạt của phần lớn các tác phẩm nghệ thuật Ai Cập thời bấy giờ nhưng hình ảnh trên cán dao “Gebel el-Arak” được đánh giá là nổi bật và tinh tế hơn.
cán dao Gebel EI-Arak, 3150 TCN
* Các quy ước từ nghìn năm
Theo sự vận động của lịch sử, dường như từ xa xưa ở Ai Cập tồn tại một sự tiến triển đặc biệt, dần dần ấn định và áp đặt kiểu hình tượng theo quy ước rõ ràng. Nam giới phải được miêu tả trước tiên, một chân đặt lên trước, tĩnh lặng, ở trần, mặc khố được thắt bởi một thắt lưng và đội tóc giả khá dầy. Còn người phụ nữ gần như lúc nào cũng mặc một chiếc áo cánh, dài tới kheo chân, vừa khít vào người và cũng đội tóc giả dầy (các hình tượng này không vi phạm phẩm chất người phụ nữ). Những bức tượng nam, nữ có thể làm theo tỷ lệ tự nhiên, thu nhỏ, hoặc phóng to với kích cỡ khổng lồ. Từ rất lâu, người ta đã có thói quen đặt tượng chân dung người quá cố trong các khu mộ, kể cả khu mộ không tráng lệ lắm. Những bức tượng này khác nhau về đặc điểm nhưng có kiểu mẫu chung gần giống loại tượng ở giai đoạn cách đây khoảng 3000 năm.
Ví dụ điển hình là ba pho tượng to bằng người thật, được đặt trong phòng trưng bày các tác phẩm Ai Cập tại bảo tàng Louvre từ năm 1837. Hai trong số đó gần như giống nhau, cùng đại diện cho một người đàn ông có địa vị đáng kể tên là Sépa; bức thứ ba là người phụ nữ có tên Nésa. Chắc chắn những bức tượng này có xuất xứ từ Saquara- triều đại thứ III, khoảng năm 2670 TCN. Các tư thế bức tượng rất đơn giản: người đàn ông đặt chân trái lên trước- miêu tả bước đi. Người phụ nữ dè dặt hơn, đứng thẳng, chân khép vào nhau, khuôn mặt bất động, tĩnh lặng, mắt mở lớn, môi khép lại, thân hình được gạn lọc một cách đơn giản nhất nhưng vẫn uyển chuyển. Người ta cũng bắt gặp những nét biểu lộ này ở tượng chân dung Rámsés II, tại bảo tàng Turin, nhưng tinh tế hơn rất nhiều. Chân dung Rámas II xuất xứ từ đền Karnak vào khoảng năm 1270 TCN. Đây là hình tượng nhà vua ngồi trên ngai vàng với chiếc áo dài xếp nếp được nghệ sĩ khai thác triệt để làm cho khuôn mặt nhân vật sinh động hẳn lên. Các khối nổi hiển hiện rõ dưới các lớp vải. Những nét đặc biệt này nhấn mạnh cho thấy cái thần của tác phẩm, dù nó cách xa XIV thế kỷ so với ba bức tượng người Ai Cập ở bảo tàng Louvre nói trên, vậy mà vẫn có nhiều điểm tương đồng.
Nghệ thuật điêu khắc Ai Cập cổ có thể kết hợp giữa sự đơn giản hóa hình khối với sự thuần khiết của hình dáng. Người ta nhìn thấy một vài tư thế cứng nhắc, và nhiều đặc điểm biểu lộ cảm xúc của vô số tượng mặt người được giữ gìn ở các bảo tàng. Vẻ đẹp của các khuôn mặt này biết kết hợp giữa tính nhân đạo và vẻ thần thánh toả sáng. Khuôn mặt khổng lồ của Aménophis III, với chiều cao 9m, ra đời khoảng năm 1360 TCN, hiện đang được bày tại bảo tàng British là một ví dụ (tượng đặt trong bảo tàng được thu nhỏ còn 1,31m). Sự hài hòa giữa các nét là điều lôi cuốn đầu tiên trong tác phẩm này: mắt tượng mang hình quả hạnh rất phù hợp với nụ cười hé mở bởi đôi môi - một bức tượng vừa tinh tế nhưng chân chất, mộc mạc tránh lối kiểu cách.
* Cảm hứng hiện thực
Nghệ thuật điêu khắc Ai Cập thời sơ khai đã biết chuyển một cách dễ dàng từ cảm hứng thần thánh tới cảm hứng hiện thực. Cùng một điêu khắc gia hay cùng một nhóm nghệ sĩ, họ đều như bằng lòng với những chuẩn mực truyền thống và tính chân thực của khuôn mặt, khi thì mô tả tượng trưng cho một thế giới khác, lúc lại như miêu tả cuộc sống thực hàng ngày. Có được điều này đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết kết hợp các bài học truyền thống với khả năng quan sát trực tiếp, sự nhanh nhậy của mắt và sự sáng tạo về hình ảnh. Một thời gian sau, nghệ thuật điêu khắc cổ đại mới kết hợp được phương diện sáng tác này. Trong khi đó, nghệ thuật điêu khắc Ai cập thời sơ khai đã đạt được ưu điểm này từ khá sớm.
Đối với một vài bức tượng, điêu khắc gia hoàn toàn không giấu giếm cảm hứng phàm tục, ngay cả khi đó là các tượng đặt trong các khu mộ. Ví dụ tượng nhân vật cao cấp Hermiounou, tác phẩm có kích thước tự nhiên bằng người thật ra đời khoảng năm 2580 TCN dưới triều đại IV của Chéops. Tượng được tạc bằng tảng đá vôi lớn, riêng đôi mắt khảm pha lê và vàng. Hình khối cơ thể vẫn theo thường lệ, mạnh mẽ nhưng đơn giản. Điểm đặc biệt là điêu khắc gia đã không sợ khi miêu tả sự béo phì của người đàn ông này: nước da dầy, mỡ bụng phình ra, nếp gấp của rốn là những chi tiết mà điêu khắc gia muốn che giấu bởi ông ngồi trong tư thế ở trần. Hình ảnh này cho thấy Hermiounou được triều đình thời đó đãi ngộ tốt và giữ trách nhiệm quan trọng, nặng nề trong triều đình.
Ngoài ra, vì Ai Cập gồm nhiều tầng lớp dân cư khác nhau ở đây có sự chú ý đặc biệt về vấn đề chủng tộc. Điển hình là một loạt tượng mặt người được gọi là đầu “đặt trước” (tête “de réserve”). Các chuyên gia đã bàn luận rất nhiều về mục đích của nhà điêu khắc khi tạo ra những khuôn mặt này nhưng vẫn không có kết luận chắc chắn nào, ngoài việc biết có từ triều đại thứ IV- TCN, dưới sự trị vì của vua Chéops. Còn nhiều tranh luận về nhóm tượng này, đầu tiên là sự trần trụi đáng ngạc nhiên của những bức tượng đầu người: có tượng là khuôn mặt trái xoan khá hoàn hảo với mũi dài, thẳng, đôi môi đều đặn; ngược lại, có khuôn mặt thô, mũi tẹt, môi dầy như đặc điểm của người xứ Nuy-bi; tuy nhiên, điều đáng ghi nhận: đây là những bức tượng được mô tả không phải với chủ ý châm biếm.
Người ta cứ ngỡ không thể đoán được tuổi nhân vật mẫu của các bức tượng Ai Cập cổ, thực tế đã chứng minh điều ngược lại. Chúng ta đề cập đến hai tượng chân dung Tchéti- quan chưởng ấn vùng Hạ Ai Cập (Basse - égypte) có từ triều đại Pépi đệ I hoặc Mérenrê (khoảng năm 2339 - 2292 TCN). Cả hai đều là tượng nhỏ bằng gỗ, cao khoảng 75cm: Bức thứ nhất hiện đang được bảo quản tại bảo tàng British, là hiện thân của một chàng trai trẻ, mảnh mai, đầu ngẩng cao và hoàn toàn khoả thân (điều này chứng minh nghệ thuật Ai Cập diễn đạt khoả thân một cách dũng cảm trước cả Hy Lạp); Bức thứ hai được gìn giữ tại bảo tàng Louvre lại mang dáng hình chắc khỏe, khuôn mặt to với hai má tròn, cổ đầy, và lần này vị chức sắc mặc một chiếc váy khá dài cùng với thắt lưng. Điều đó có nghĩa nghệ sĩ hoàn toàn có thể cảm nhận và thể hiện cuộc sống nội tâm của hình mẫu, hơn nữa họ đã biết cách thoát khỏi cái nhìn quá phụ thuộc vào hiện thực nên đã thu nhỏ các nhân vật của mình. Một cặp tượng nhỏ khác tại bảo tàng Louvre (khoảng năm 2500 - 2350 TCN), đó là đôi vợ chồng được chạm khắc bằng gỗ, tuy tượng kết hợp với chủ nghĩa hiện thực nhưng hoàn toàn thoát khỏi những quy ước. Trường hợp của bức tượng nổi tiếng: “Viên thư lại ngồi xổm” được Mariette phát hiện vào năm 1850 cũng tương tự. Tượng được bảo quản tốt nên phần lớn màu sắc của bức tượng còn giữ được cùng với đôi mắt khảm pha lê đá. Tượng “Viên thư lại ngồi khoanh chân” không còn thấy xuất hiện bộ tóc giả, hai tay ông cầm quyển sách và đặt lên đùi, tượng không còn trong tình trạng khoả thân mà mặc chiếc khố trơn. Cái trục của tập giấy cói là một nét nhấn khác lạ trong bức tượng, tượng để lại ấn tượng mạnh mẽ hơn qua các chi tiết như: bộ ngực xệ xuống, bụng phình ra, rốn lõm vào, khuôn mặt có hai gò má nổi lên, cằm vuông và môi mỏng. Bức tượng trên bắt đầu có từ triều đại thứ IV (theo cách tính ngày nay là khoảng năm 2620 - 2500 TCN). Các chuyên gia đều thống nhất ý kiến là cảm hứng sáng tạo này không thể so sánh như thành quả của sự phát triển, nhưng đó là gốc rễ của nghệ thuật Ai Cập.
* Sự tìm tòi trong cuộc sống hàng ngày
Chúng ta quay trở lại với đề tài chạm khắc nổi để cảm nhận rõ hơn khả năng của các nhà điêu khắc Ai Cập cổ đối với thế giới bên ngoài. Vách ngăn của các ngôi mộ Ai Cập thường được khắc nổi, sơn hoặc điểm xuyết màu ở vài hình vẽ. Tuy nhiên sự gò bó về phong cách thể hiện kéo dài trong suốt bao nhiêu thế kỷ. Hầu hết các chạm khắc thời đó đều có các nhân vật nhìn nghiêng, bàn chân sắp thẳng hàng trên cùng một đường thẳng, các cảnh được phân bố thành nhiều lớp chồng lên nhau. Trong sự gò bó chặt chẽ này lại biểu lộ sự ham hiểu biết đến lạ lùng, vượt ra khỏi chủ đề tôn giáo. Nói cách khác, người nghệ sĩ như muốn tìm mọi lý do để không lặp lại chủ đề tôn giáo mà thay vào đó là mô tả cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Cuộc sống thường ngày được biểu hiện với các luật lệ, quang cảnh diễn ra ở đồng quê, người và muôn thú cùng một sự sinh trưởng... tất cả những điều đó được miêu tả với độ nhạy cảm tuyệt đối. Một đoạn tác phẩm như: “Séthi đệ I đang dâng bó hoa súng” cũng đủ nhận thấy sự tinh tế của các đường lượn và sự chính xác trong việc chạm khắc. Để đạt được sự khéo léo này cần phải kết hợp việc quan sát trực tiếp cùng sự nhạy cảm của những chủ đề, từ đó nhà điêu khắc hiểu cần đắp chỗ nào nổi, chỗ nào lõm, nét và khối hình của nhân vật phải vừa mắt đối với một bức chạm khắc trên tường. Tác phẩm “Nhóm dân chài và người chăn bò” (khoảng năm 2350 - 2200 TCN, triều đại thứ VI) là một ví dụ: ở đây, người chăn bò lội qua sông với một chú bê mới sinh trên vai. Đặc biệt hơn, điêu khắc gia nhấn mạnh chi tiết chú bê cứ ngoái cổ lại để nhìn mẹ nó. Hay bức “Cuộc săn bắt với dây thòng lọng” (triều đại thứ V, đang được bày tại bảo tàng Metropolitan, New York). Ngoài ra, chúng ta còn nhận thấy chút ít hài hước trong bức điêu khắc “Năm con lừa trên cánh đồng lúa” (khoảng đầu triều đại thứ IV, bảo tàng Royal Ontario -Toronto); bức điêu khắc này tả một chú lừa đang tranh thủ chút thời gian dừng lại để gặm cỏ, bốn con còn lại dường như con nào cũng đang chìm đắm trong những cảm xúc khác nhau, chúng như đang tìm cách nắm bắt thiên nhiên. Tác phẩm chỉ điểm xuyết một vài mầu sắc nhẹ nhàng, giản lược đi nhiều, chi tiết đáng ghi nhận, chỉ tả năm con lừa ở dáng nhìn nghiêng. Bên cạnh đó, người ta còn nhận thấy trong một số tác phẩm điêu khắc có sự chế giễu và tinh thần tự do mãnh liệt. Chúng ta cũng không thể bỏ qua vô số tượng nhỏ đặt trong các khu mộ- những bức tượng mang hình ảnh đường phố. Đó là hình ảnh người bán thịt đang trói con vật của mình, bà chủ cối xay bột đang cán lúa mì,.v.v... Kiểu dáng của các bức tượng này thường rất thô, chứa ít nhiều tính biếm họa nhưng đó là kiểu nghệ thuật bình dân.
2. Điêu khắc vùng Trung cận Đông
Điêu khắc miền Mésopotamie (Lưỡng Hà) có thể khiến người ta thất vọng bởi: so với nghệ thuật điêu khắc Ai Cập, điêu khắc vùng này có vẻ phát triển muộn hơn; cảm hứng sáng tác tương đối nhàm chán; việc thể hiện khá vụng về và bình thường. Mặc dù vậy, Mésopotamie vẫn xứng đáng lôi cuốn khách tham quan bởi nếu nhìn bao quát, nơi đây có những bước khởi đầu của nghệ thuật thời tiền sử và sơ sử. Nghệ thuật điêu khắc Mésopotamie có khả năng làm ta mơ tưởng tới những nền văn minh xưa kia, tuy nhiên rất hiếm thấy các kiệt tác.
* Từ Mari đến vương quốc Akkad
Bức tượng nhỏ bằng alêbat (vật liệu làm đồ mỹ nghệ) mang hình ảnh viên quan Ebih II (khoảng năm 2400 TCN) ở bảo tàng Louvre được tìm thấy trong cuộc khai quật tại Mari, lôi cuốn người xem bởi khối nổi tinh tế của cánh tay và việc xử lý các đường nét ria, váy kaunakès (một dạng váy da cừu), cộng với đôi mắt khảm sò và đá lazunit, gây cảm giác nhu nhược cho khuôn mặt viên quan.
Tác phẩm nghệ thuật điêu khắc đầu tiên của vùng Mésopotamie phải nhắc đến là tấm bia lớn mô tả chiến công của vua Narâm-Sin, người đem lại “bài ca khải hoàn” cho vương quốc Akkad. Hiện tại tấm bia được trưng bày tại bảo tàng Louvre, rất có thể nó được ra đời khoảng năm 2230 TCN. Bia được phát hiện ở Suse, miêu tả cảnh nhà vua đang trèo lên đỉnh núi, theo sau là binh lính. Các nhân vật diễn tả theo chiều nhìn bên. Bố cục được phân chia trên hai đường dốc lên - tượng trưng cho việc leo lên các bậc cao dần. Nhà vua vác chiếc cung và bao tên, chân đặt lên một đống xác chết trần trụi. Trước mặt ngài là một tên lính bị nhát dáo đâm chết, một tên khác quỳ sụp xuống đầy vẻ khiếp sợ. Ngọn núi và cái cây tách nhóm người lính làm hai phía, tạo ra một cảnh tượng thật sự trong chiến trận. Xác một trong hai tên lính rơi từ giữa xuống như trong một rãnh nước chảy. ánh sáng được chia làm hai vùng, một vùng bừng sáng còn vùng nhà vua không để tâm đến thì yên tĩnh lạ lùng. Tất cả những chi tiết đó tạo nên một cảnh tượng bằng hình ảnh vô cùng sống động, hơn cả thuật lại bằng lời.
* Thời đại vua Gudea
Trước sự sụp đổ đế chế do Narâm-Sin đứng đầu, nhà nước Xu-me của triều đại Lagash đã ra đời, được củng cố bởi vua Gudea, nắm quyền lực vào năm 2125 TCN. Ông đã khôi phục lại nền kinh tế của vùng thịnh vượng, xây dựng lại cơ cấu tôn giáo và cho làm nhiều tượng có hình của chính mình. Những bức tượng này đều có hình dáng đơn giản, chẳng hạn như tượng Gudea đứng, ra đời khoảng năm 2150 TCN (lưu giữ ở bảo tàng Louvre), được đẽo bằng khoáng diorit láng bóng.
* Sự đổi mới của Suse
Thời đại Gudea sụp đổ, ánh sáng của dòng họ Lagash kéo dài không được lâu. Các nhà sử học phỏng đoán: khoảng cuối thiên niên kỷ thứ III TCN, xung quanh thành phố Suse thực sự muốn phục hồi lại đế chế, nhưng nhiều cuộc khủng hoảng xuyên suốt cả vùng Trung Đông đã nhập cư vào vô số dân tộc mới. Chính vì thế mà các cuộc xung đột xảy ra ngày càng nhiều, sự chia nhỏ quyền lực dường như không thuận lợi lắm. Trong bối cảnh này xuất hiện một dạng nghệ thuật mới phản ánh hiện thực rối ren của xã hội bấy giờ. Đến khi Assyrie nắm chắc quyền lực quân sự và sức mạnh kinh tế tối cao, ông thống trị từ vịnh Persique đến bờ biển Địa Trung Hải, lúc đó người ta tìm thấy được một nền nghệ thuật đáng tin cậy ở chính ông. Thời gian làm thay đổi mọi thứ, những cuộc viễn chinh của các vua Ai Cập (Phraon) muốn kiểm soát sự thịnh vượng của Levant đã làm tăng sự nổi tiếng và uy thế của nghệ thuật Ai Cập. Lúc này, thương mại đã có mối quan hệ với vùng Phênixi (vùng trước kia của Châu á, ở giữa Địa Trung Hải và Li băng). Việc dân số quá lớn trong vùng đã gây ra nỗi lo về an ninh, quân sự. Nhu cầu phân cấp nhân công là cần thiết, điều này đã tạo ra “làn sóng” nghệ sĩ và thợ thủ công có nguồn gốc khác nhau tới phục vụ đế chế Assyrien. Cũng chính sự hỗn hợp này đã cho ra đời những bức chạm khắc nổi trong các cung điện như cung điện của Assurnasirpal (883- 859 TCN) tại Numrud, cung điện của Sargon II (721-705 TCN) ở Khorsabad, cung điện Sennacherib (704-681 TCN) của con trai Sargon II và người kế thừa tại Ninive. Ngày nay vẫn còn gìn giữ được một số chạm nổi trang trí lớn của các công trình kiến trúc trên, các mảnh vỡ tìm kiếm được cũng giữ gìn một cách đặc biệt. Những con bò mộng có cánh và có đầu người được đặt như lính gác trước các cung điện thuộc Khorsabad (bày tại bảo tàng Louvre). Hầu hết các hình tượng trong tác phẩm được làm theo tỉ lệ khổng lồ của các mẫu hình truyền thống vùng Mésopotamie. Một số phù điêu lớn bằng thạch cao hoặc bằng chất alêbat gắn trên các bức tường gợi lại chiến công trong các cuộc chiến của triều đại Assyrien, như tác phẩm “Những người đầy tớ mang quan tài vua Sargon II” hay “Lễ cống nộp ở xứ Me-di” (thuộc Iran ngày nay). Trong các phù điêu này, các hình đầu và chân đều được nhìn nghiêng, điều này cho thấy sự ảnh hưởng rõ rệt từ nghệ thuật Ai Cập. Tuy vậy, nghệ thuật chạm nổi ở đây còn vụng về nhưng vẫn thể hiện các chi tiết râu, tóc, áo quần như một kiểu trang trí, song cũng phù hợp với sự miêu tả chính xác muôn thú, đặc biệt là ngựa và bộ yên cương của chúng. Tác phẩm “người đàn ông ôm con dê rừng non” (bảo tàng Louvre) được biểu lộ chủ đề truyền thống người mang đồ cúng lễ. ở đây nhà điêu khắc đã thể hiện được nội tâm con thú non trong nét khắc, tuy cẳng chân con thú thõng xuống nhưng gương mặt vẫn trong tình trạng nghe ngóng. Bằng cách “chơi” nét qua hình ảnh lọn tóc xoăn và râu người đàn ông, các nếp xếp của áo lễ, nhà điêu khắc đã thổi một sức sống mới vào tác phẩm.
Những cách trang trí có nguồn gốc từ Ninive mang tới một phong cách rất gần gũi, có thể không hoành tráng song mang nhiều tính hội họa hơn. Tác phẩm “Vua Assurbanipal đứng trong xe” (668- 629 TCN, bày ở bảo tàng Louvre), nghệ sĩ đã thể hiện ý tưởng trên một bức chạm nổi đắp lên không dày nhưng rõ khối. Bức này gồm năm tấm phù điêu nhỏ ghép liên tiếp lại: một người bảo vệ và một người theo sau; những bánh xe; hòm xe và hai người phục vụ; người dẫn đường và cuối cùng là nhà vua đang điều khiển tất cả nhóm người. Hay các cảnh liên quan đến việc đi đày của người Elamite. Các tác phẩm điêu khắc dạng này thường ít khéo léo về kỹ thuật, nhưng lại rất ý nhị với tinh thần nhân đạo khá bất ngờ. Đó cũng là giá trị lịch sử của chúng. Những đường nét nặng nề trong các tác phẩm như cánh tay mạnh mẽ, bàn tay ngắn thô... làm cho tính nghệ thuật ở đây không tinh tế như các bức điêu khắc của Ai Cập cổ. Vùng Ninive chỉ để lại cho chúng ta tác phẩm nổi tiếng “Sư tử bị thương” tại bảo tàng British. Tác phẩm này chiếm vị trí khá quan trọng trong lịch sử nghệ thuật. Đó là một trong những cảnh tượng trong đề tài săn bắn và chiến tranh. Chạm nổi này được treo trên bức tường của cung điện: một cô nàng sư tử vừa bị đánh bại, phần thân sau của con vật bị tê liệt bởi hai mũi tên xuyên qua sống lưng. Nghệ sĩ đã lột tả một cách tuyệt đối nỗi sợ hãi của con vật, ở phần chân sau như bị tê liệt kéo lê trên đất, hai chân trước co rúm lại. Điêu khắc gia diễn tả thân con sư tử bằng một đường lượn dài, từ dưới đất lên tận mõm con vật. Đó là một cách tôn trọng khối nổi của bức phù điêu.
* Từ thời đại Babylon đến thời đại Achéménnide
Đế chế Assyrien lớn mạnh bị đe doạ về mọi mặt và sụp đổ trong khoảng 4 năm (từ 616 đến 612 TCN) và được thay thế bởi đế chế Babylon (612- 539 TCN). Sau đó, triều đại Babylon lại bị thất thế trên vùng lãnh thổ rộng lớn bởi những người Achéménide (539-330 TCN). Thành phố cổ đại Suse và Persépolis được Darius xây dựng nên. Trong sự xáo trộn về chính trị và kinh tế, các di sản nghệ thuật của Assyrien có dịp được tiếp thu từ những ông chủ đầy xa hoa và các nhà kiến trúc lớn, di sản này được phát triển trên thuyết hỗn hợp, tức là pha trộn tinh tế các truyền thống riêng với nhiều nét của nghệ thuật Ai Cập và Hy Lạp. Một trong những cống hiến của Babylon và Ba Tư trước kia là biết sử dụng gạch tráng men điểm xuyết cho những màu bất di bất dịch; thay việc trang trí những bức tường khắc nổi bằng chất liệu Alêbat (albâtre), nhất là đối với phần ở ngoài khoảng không gian tự do. Người ta đã bảo tồn những họa tiết bằng gạch lớn còn sót lại ở bảo tàng Berlin, Londre, Louvre. Thời kỳ đó, việc sử dụng gạch điểm xuyết là một trong những nét mới lạ và hiệu quả trong nghệ thuật trang trí ở nơi đây, nhưng lại mất dần trong những thế kỷ kế tiếp.
Nghệ thuật hội họa Ai Cập cổ
Hội hoạ của Ai Cập cổ được biết đến ít hơn điêu khắc. Đáng lẽ nó phải giữ vị trí quan trọng trong việc trang trí các cung điện, các khu mộ, nhưng những di tích về hội hoạ Ai Cập cổ gần như không còn giữ lại được gì. Tuy nhiên từ các mẩu và các đoạn tranh hiếm hoi còn lưu giữ, chúng ta cũng có thể tưởng tượng được các đặc tính của hội hoạ Ai Cập cổ. Phong cách chính trong nền hội họa này được đơn giản, cách điệu và dập khuôn theo những quy ước khá nghèo nàn, phần lớn mang tính trang trí hoặc điểm xuyết linh hoạt cho các bức chạm nổi.
Người ta tìm thấy các bằng chứng về hội hoạ Ai Cập cổ qua các hình ảnh trang trí còn lưu lại trong các khu mộ. Những bức tranh này được tô vẽ bằng nhiều chất liệu, chủ yếu trang trí cho các tác phẩm chạm nổi. Rất nhiều hình ảnh mang vẻ huyền bí của thế giới bên kia, tuy nhiên không phải tác phẩm nào cũng mang tính thẩm mỹ cao. Họa sĩ Ai Cập cổ dường như bị cuốn hút nhiều hơn về những đề tài được đúc kết từ thực tế. Ví dụ hình vẽ “Người đàn bà khóc mướn” diễn tả trên chất liệu giả đá hoa cương trong ngôi mộ của Nébamon và Ipouky (khoảng 1370 TCN, tại Khokha). Bộ tóc đen của người phụ nữ trong tranh nổi bật trên nền đỏ, có những hình vuông lớn tạo thành bởi các dải trắng, vàng xen kẽ. Sự hoà hợp màu sắc đỏ, đen, vàng, trắng vừa phong phú, vừa tinh tế. Nét lượn của thân thể người phụ nữ cùng các nếp xếp của chiếc váy đối lập khéo léo với những đường thẳng và đường ngang của vách đá làm cho bức tranh thêm sinh động. Chúng ta có thể so sánh bức tranh này với cảnh vẽ “Những người đàn bà khóc mướn” được phát hiện tại Thèbes, trong khu mộ của Ramosé, ra đời năm 1360 trước Công nguyên. Trong bức tranh thứ 2, màu những chiếc váy và nền tranh được dùng màu vàng trắng tô chồng lên nền tạo thành lớp trên, chừa lại những khuôn mặt và da thịt mầu vàng ốc; mầu đen của các bộ tóc giả có nhiều lọn quăn thả dài xuống vai làm bức tranh chắc chắn. Những người đàn bà trong tranh dường như có cùng dáng vẻ, khác nhau nhiều nhất là góc độ giơ lên của các cánh tay và độ ngước lên của các gương mặt. Sự tĩnh lặng của những chiếc váy được phá vỡ bằng cách điểm xuyết một cô gái nhỏ khoả thân đứng ở lớp đầu tiên của tranh. Điều này cũng phá vỡ sự tĩnh lặng và cách đều của các mảng tóc đen. Hình dáng các nhân vật tạo ra những điệu bộ cứng đờ tượng trưng cho việc than khóc, đối lập mạnh mẽ với sự run rẩy của những lọn tóc đen và đường thẳng chạy dọc của các bộ váy áo - Quả là sự khám phá tài tình.
phác thảo chân dung vua, 1555-1080 TCN
Người ta tìm thấy nhiều di vật chứng tỏ các hoạ sĩ Ai Cập có mặt nhiều trong lĩnh vực trang trí. Và đảm bảo rằng sự khéo léo tài tình của họ sánh được với các nhà điêu khắc. Chúng ta chỉ cần chiêm ngưỡng một “ostracon” đặc biệt mà bảo tàng Louvre có được. Đây là bản phác thảo gương mặt một vị vua. Có lẽ bức chân dung này được một họa sĩ thời Nouvel Ampire thể hiện. Bức tranh chỉ sử dụng một nét vẽ mầu đỏ và một nét mầu đen. Khi thì họa sĩ để cho xuất hiện nét đỏ, lúc lại nhấn mạnh nét đỏ với nét đen mà không làm hỏng những nét đệm ở dưới, cũng không làm rườm rà bức vẽ. Sau này người ta cũng tìm thấy sự nhạy cảm tương tự trong các nét vẽ của hội hoạ Trung Quốc.
Nhìn chung các họa sĩ Ai Cập cổ vẽ trang trí nhiều trong các cung điện vua chúa, người ta có thể tìm thấy một kiệt tác thực sự trên tráp gỗ phủ chất giả đá hoa (ra đời khoảng năm 1325 TCN) trong ngôi mộ của Toutânkhamon. Trên hai mặt tráp là hình ảnh thắng trận của vua xứ Nubien và vua xứ Syrien. Màu sắc thể hiện trên tráp cô đọng là nâu đỏ, vàng, đen. Các khuôn mặt miêu tả theo hướng nhìn nghiêng. Kết cấu bố cục cầu kỳ nhưng sáng sủa. Khuôn mặt của hai vị vua và sự vươn lên lấy đà của hai chú ngựa mắc vào xe được vẽ theo kiểu cách vô cùng khéo léo. Chúng ta đã bắt gặp nhiều bức chạm nổi thấp có cùng phong cách trên và cách xử lý khá tương tự, đặc biệt những tác phẩm thể hiện cuộc chiến của Séthi đệ I trên các phù điêu ở đền Amon -Rê thuộc Karnak, hay những bức tranh mô tả cuộc săn bắt của Ramsè III trên cổng đền. Có thể đây là một trong những đề tài chính của các hoạ sĩ cung đình thời bấy giờ, được các nghệ sĩ tái tạo lại nhiều lần, tất nhiên phải cộng với những thay đổi và sáng tạo riêng của từng tác giả.
Người dân Ai Cập khẳng định rằng “hội hoạ xuất hiện ở nước họ cách đây 6000 năm, trước cả khi họ du nhập vào Hy Lạp”. Theo các tác giả người La Tinh thì đó đơn thuần chỉ là những lời khoe khoang. Tuy nhiên, nếu không kể đến những ý nghĩa sâu xa hơn, điều này cũng rất có thể là sự thật. Vào thế kỷ 18 TCN, khi khu mộ của Mari bắt đầu có những dấu hiệu sụp đổ, người ta đã phát hiện thấy nhiều chi tiết của tranh tường có đặc điểm chung với hội hoạ Ai Cập, ví dụ: đầu và chân các nhân vật đều được nhìn nghiêng, vai quay trước mặt, màu sắc sử dụng rất ít.
Hội hoạ dành cho các lĩnh vực khác ở Ai Cập cổ có khác biệt chút ít so với hội hoạ trong các khu mộ. Ví dụ phát hiện của Cnossos chỉ ra rằng khoảng năm 1700 - 1600 trước Công nguyên, ở Ai Cập có một sức sống mãnh liệt và đa dạng hơn những gì chúng ta đã biết về Ai Cập. Giai đoạn này người Ai Cập thích những đường cong trang trí linh hoạt và hướng nhìn phía bên của các nhân vật, đồng thời thích dùng các mảng màu phẳng (màu bẹt).
Gần đây hơn, vào năm 1970, người ta đã khám phá ra các đoạn tranh trên tường thành Mycène, có đoạn mô tả nửa thân trên người phụ nữ. Người ta ước tính, bức tranh này ra đời khoảng thế kỷ XIII trước Công nguyên. Làm thế nào có thể nhận thấy bức tranh đó có những nét truyền thống Ai Cập cổ, rất có thể do được Crète truyền lại.
Nguồn bài viết : http://deziart.com
Tác giả: NGÂN ĐĂNG
Tài liệu tham khảo:
1. Jacques Thuiller. Lịch sử nghệ thuật. Nhà xuất bản Flammarion, Paris 2002
2. Từ điển Bách khoa thư Wikipedia